Tin tức động thái
Bạn đang ở vị trí:
Trang chủ
/
/
Thiên địa Khoa học phổ biến
01-19

Nho (tên khoa học: ) là một loại cây leo gỗ thuộc họ Nho, có thân hình trụ, có rãnh dọc và không có lông hoặc chỉ có ít lông mềm. Lá hình bầu dục, cụm hoa hình nón có thể dày đặc hoặc phân tán, nhánh gốc phát triển mạnh mẽ. Quả có hình cầu hoặc hình elip, thời gian ra hoa vào tháng 4-5, thu hoạch vào tháng 8-9. Nho là một trong những loài cây ăn quả cổ xưa nhất trên thế giới, hóa thạch của cây nho được tìm thấy trong tầng địa chất thứ ba, cho thấy nó đã từng phổ biến ở châu Âu, châu Á và Nho bản địa của vùng tây nam châu Á, hiện nay được trồng khắp nơi trên thế giới, với khoảng 95% sản lượng nho tập trung ở bán cầu bắc. Nho nổi tiếng với vai trò là một loại trái cây, có thể ăn tươi hoặc làm khô để làm nho khô, đồng thời cũng được sử dụng để sản xuất rượu vang. Các phần còn lại sau khi lên men có thể chiết xuất axit tartaric, rễ và thân cây có thể dùng làm thuốc để chống nôn mửa và an thai. Đặc điểm hình thái của cây nho là một loại cây leo gỗ. Thân cây hình trụ, có rãnh dọc và không có lông hoặc chỉ có lông mềm. Cuống leo chia nhánh thành hai nhánh, cách hai đốt một lần ngắt và mọc đối xứng với lá. Lá hình bầu dục, có thể chia thành 3-5 khía nông hoặc trung bình, dài từ 7-18 cm, rộng từ 6-16 cm, đầu khía sắc nhọn, các khía thường dính vào nhau, phần gốc thường co thắt, khía sâu hoặc rộng, phần gốc hình tim sâu, phần giữa khía lõm thành hình tròn, hai bên thường dính vào nhau, mép có 22-27 răng cưa, răng sâu và lớn, không đều, đầu răng nhọn, mặt trên màu xanh lá cây, mặt dưới màu xanh nhạt, không có lông hoặc có ít lông mềm; gân chính 5 nhánh, gân phụ có 4-5 cặp, mạng lưới gân không rõ rệt; cuống lá dài từ 4-9 cm, gần như không có lông; phiến lá rụng sớm. Cụm hoa hình nón có thể dày đặc hoặc phân tán, nhiều hoa, mọc đối xứng với lá, nhánh gốc phát triển mạnh, dài từ 10-20 cm, cuống hoa dài từ 2-4 cm, gần như không có lông hoặc có ít lông tơ; cuống hoa dài từ 1,5-2,5 mm, không có lông; nụ hoa hình trứng ngược, cao từ 2-3 mm, đầu gần hình tròn; đài hoa hình đĩa cạn, mép có sóng, ngoài không có lông; có 5 cánh hoa, hình mũ dính chặt và rụng theo hình thức; có 5 nhị hoa, sợi nhị hình sợi, dài từ 0,6-1 mm, phấn hoa màu vàng, hình trứng, dài từ 0,4-0,8 mm, trong hoa cái ngắn hơn và teo lại hoặc hoàn toàn thoái hóa; đĩa hoa phát triển tốt, chia thành 5 khía nông; noãn cái 1, trong hoa đực hoàn toàn teo lại, noãn cái hình trứng, vòi noãn ngắn, đầu trụ mở rộng. Quả có hình cầu hoặc hình elip, đường kính từ 1,5-2 cm; hạt giống hình trứng ngược, đầu ngắn gần hình tròn, có mỏ ngắn ở phía dưới, vết nhân ở mặt sau giữa hạt giống hình elip, gân hạt hơi nhô ra, mặt bụng có gân giữa nổi bật, hai rãnh bên rộng, kéo dài đến 1/4 chiều dài của hạt. Thời gian ra hoa từ tháng 4-5, thời gian thu hoạch từ tháng 8-9. Điều kiện sinh trưởng nhiệt độ mà cây nho cần khi phát triển tối thiểu khoảng 12°C-15°C, nhiệt độ đất tối thiểu khoảng 10°C-13°C, nhiệt độ lý tưởng nhất trong giai đoạn ra hoa là khoảng 20°C, nhiệt độ lý tưởng nhất trong giai đoạn phình to của quả là từ 20°C-30°C. Nếu chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm lớn, việc tạo màu và độ ngọt sẽ tốt hơn. Sau khi cây nho nảy mầm vào mùa xuân, nếu nhiệt độ tăng nhanh, dễ dẫn đến hiện tượng tăng trưởng quá mức của cành, biểu hiện là các đốt không đủ chắc chắn, việc thụ phấn trong giai đoạn ra hoa dễ bị ảnh hưởng. Nếu gặp điều kiện lạnh vào mùa xuân, nên chú ý bổ sung phốt pho và chất hữu cơ giàu cacbon, giảm thiểu việc sử dụng phân đạm. Cây nho cần nước khá nhiều trong giai đoạn đầu phát triển hoặc giai đoạn dinh dưỡng, nhưng khi bước vào giai đoạn kết quả hoặc cuối giai đoạn phát triển, bộ rễ yếu đi và nhu cầu nước giảm. Cần tránh làm tổn thương rễ để không ảnh hưởng đến chất lượng. Cây nho sợ mưa và sương đêm, năm mưa nhiều dễ gây thiếu ánh sáng, hạn chế quang hợp, hấp thụ quá nhiều nước dễ dẫn đến hiện tượng tăng trưởng quá mức của cành và độ ẩm cao, rất dễ gây ra các bệnh như bệnh đen đốm, bệnh nấm xám. Do đó, trong giai đoạn ra hoa, giữ chiều dài cành từ 40-70 cm là lý tưởng nhất; ở khu vực dễ nứt quả, lượng nước tưới trong giai đoạn kết quả cũng cần được kiểm soát. Ở khu vực thiếu nước hoặc dễ bị khô hạn, nên phủ rơm để giữ độ ẩm đất, đồng thời cũng giúp kiểm soát sự phát triển của cỏ. Cây nho cần một cường độ ánh sáng nhất định trong quá trình sinh trưởng bình thường, nhưng ánh sáng quá mạnh đặc biệt ở giai đoạn cây cứng cáp dễ gây ra bệnh cháy nắng, lúc này có thể áp dụng biện pháp bọc túi hoặc khi trồng cây giữ lại lá để che kín quả. Khi thiếu ánh sáng, dễ dẫn đến tình trạng rụng hoa không tốt, tỷ lệ thụ phấn thấp; giai đoạn phân hóa mầm hoa không tốt, nhiều quả đơn tính; trong giai đoạn sinh trưởng cây phát triển quá mức, các đốt dài; không kết quả hoặc kết quả đơn tính; trong giai đoạn phình to của quả, dễ bị bệnh và chất lượng kém; giai đoạn chín muồi, màu sắc không đẹp, độ ngọt giảm. Đất trồng nho mặc dù có thể trồng được ở nhiều loại đất (đất đã qua cải tạo), nhưng đất phù sa và đất phù sa mịn là tốt nhất. Đất cát thoáng khí tốt, nhưng khả năng giữ phân và giữ nước kém. Đất phù sa nằm giữa đất cát và đất sét, khả năng giữ nước và giữ phân tốt, phần lớn đất phù sa khá màu mỡ. Khi cây nho phát triển mạnh mẽ, dễ xảy ra hiện tượng rơi hoa và quả đơn tính; trong điều kiện ánh sáng và nhiệt độ cao, cây kết quả tốt, năng suất cao. Khi nhiệt độ thấp và ánh sáng yếu, kết quả không tốt, năng suất thấp; cần chú ý thoát nước, tránh cày sâu, cắt tỉa nhẹ vào mùa đông, cắt tỉa nhiều vào mùa hè, và phun phân kali borat và photphat kẽm. Cây nho cần khoảng 17 loại nguyên tố dinh dưỡng, bao gồm: cacbon, hydro, oxy, nitơ, phốt pho, kali, canxi, magie, lưu huỳnh, sắt, mangan, kẽm, đồng, bo, molipden, clo, coban. Trong đó, cacbon và oxy lấy từ khí carbon dioxide trong không khí, hydro lấy từ nước trong đất, phần lớn các nguyên tố khác ngoài nitơ đều được hấp thụ từ đất qua hệ rễ. Tỷ lệ mối quan hệ giữa chúng là: 94%-99,5% của tổ chức tươi của cây trồng là sự kết hợp của carbon, hydrogen và oxygen từ không khí và nước, chỉ khoảng 0,5%-6% là từ các nguyên tố dinh dưỡng trong đất. Phân vô cơ chủ yếu cung cấp ba yếu tố chính là nitơ, phốt pho và kali, một số phân bón cũng chứa lượng lớn canxi, magie, lưu huỳnh. Hiệu quả sử dụng phân vô cơ rõ ràng, nhưng nếu sử dụng quá liều dễ gây hại phân bón, đặc biệt cần cẩn thận khi sử dụng kali. Phân hữu cơ chứa hàm lượng dinh dưỡng thấp hơn, có thể sử dụng với số lượng lớn và có tác dụng cải thiện đặc tính vật lý, hóa học và sinh học của đất. Ngoài ra, có thể bổ sung chất cải tạo đất tùy thuộc vào tình trạng đất, thông thường đất axit mạnh dễ thiếu phốt pho, kali, canxi, magie, silic, molipden, kẽm, đồng, bo; đất kiềm hoặc đất kiềm vôi thì dễ thiếu nitơ, phốt pho, sắt, mangan, kẽm, đồng. Việc bổ sung dinh dưỡng chủ yếu thực hiện theo ba phương pháp: phân bón nền, phân bón thúc, và phun phân bón lá. Phân bón nền được sử dụng sau khi cây ngủ đông hoặc sau khi thu hoạch. Phân bón thúc được sử dụng sau khi ra hoa bằng cách rải phân hóa học sau khi mưa hoặc tưới nước. Đối với đất có pH dưới 6,0, có thể bổ sung đá vôi trắng hoặc vôi. Phạm vi phân bố Cây nho bản địa của vùng tây nam châu Á, hiện nay được trồng khắp nơi trên thế giới, khoảng 95% sản lượng nho tập trung ở bán cầu bắc. Các khu vực trồng chính ở Trung Quốc bao gồm huyện Xiao ở An Huy, Turpan, Hotan ở Tân Cương, Yantai ở Sơn Đông, Zhangjiakou, Xuanhua, Changli ở Hà Bắc, Dalian, Xiongyue, Shenyang ở Liêu Ninh và các nơi như Lutemiao ở Hà Nam, Minquan, Yifeng. Phương pháp nhân giống của cây nho là nhân giống bằng cành giâm không kích thích ra rễ (giâm cành ngoài trời). Vào mùa xuân, sau khi lấy cành từ hố bảo quản ra khỏi đất, trước tiên nên ngâm trong nước sạch trong khoảng 6-8 giờ, sau đó tiến hành cắt tỉa. Thông thường cành được cắt thành các đoạn cành giâm có 2-3 mắt. Mỗi đoạn cành giâm dài khoảng 20 cm, các giống cành dài mỗi đoạn cành giâm chỉ giữ lại 1-2 mắt. Khi cắt cành giâm, phần trên cắt ngang ở phía trên mắt cách 1 cm, phần dưới cắt nghiêng dưới mắt, góc cắt hình dạng tai ngựa (khi góc cắt gần mắt dễ ra rễ). Các mắt trên đoạn cành giâm phải đầy đặn và chắc chắn, nếu mắt đầu tiên bị hư hỏng, mắt thứ hai vẫn có thể nảy mầm, điều này giúp nâng cao tỷ lệ sống của cành giâm. Đất trồng nên chọn nơi bằng phẳng, tầng đất dày, đất màu mỡ, có điều kiện tưới tiêu thuận lợi. Đầu mùa thu nên đào sâu đất khoảng 30-40 cm, kết hợp với việc đào sâu mỗi hecta đất cung cấp 3000-5000 kg phân hữu cơ, và tiến hành tưới nước mùa đông. Sau khi đất tan băng vào mùa xuân, cần kịp thời cào đất để giữ ẩm. Giâm cành có thể là giâm cành bằng luống phẳng, luống cao hoặc luống đất, luống phẳng chủ yếu được sử dụng ở các khu vực khô hạn để tiện tưới tiêu; luống cao và luống đất chủ yếu được sử dụng ở các khu vực đất ẩm ướt để thoát nước kịp thời và tránh đất ướt quá mức. Dù là giâm cành bằng luống phẳng hay luống cao, trước khi giâm cành cần chuẩn bị giường cây con. Kích thước giường cây con phụ thuộc vào hình dạng khu đất, thông thường rộng 1 mét, dài 8-10 mét, khoảng cách giữa các cây giâm cành 12-15 cm, khoảng cách giữa các hàng 30-40 cm, mỗi luống trồng 3-4 hàng. Khi giâm cành, cành được cắm nghiêng vào đất, phần trên lộ một mắt, đảm bảo mắt nằm phía trên cành giâm để cây mới mọc thẳng. Khi giâm cành trên luống đất, luống rộng khoảng 30 cm, cao 15 cm, khoảng cách giữa các luống 50-60 cm, khoảng cách giữa các cây 12-15 cm, cành được cắm hoàn toàn nghiêng trên luống. Sau khi giâm cành, tưới nước trong rãnh luống, nếu có điều kiện có thể phủ màng nhựa sau khi giâm cành sẽ đạt hiệu quả tốt hơn. Dù sử dụng phương pháp nào để giâm cành, khi giâm cành cần chú ý không để phần trên của cành vượt ra khỏi mặt đất quá dài và tránh cắm lung tung hoặc lẫn lộn giống. Thời điểm giâm cành là khi nhiệt độ đất (ở độ sâu 15-20 cm) ổn định ở trên 10°C. Ở khu vực phía bắc Trung Quốc, thường bắt đầu từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4, nhưng ở phía bắc khu vực phía bắc Trung Quốc, phải đến giữa tháng 4 mới có thể tiến hành giâm cành ngoài trời. Trong giai đoạn từ khi cây nho giâm cành đến khi ra rễ mới, cần chú ý phòng ngừa tình trạng khô đất, thông thường cứ 10 ngày tưới nước một lần. Đất nặng cần giảm số lần tưới nước, nếu tưới nước quá nhiều, đất quá ướt, nhiệt độ đất giảm, thông khí kém cũng ảnh hưởng đến việc ra rễ của cành giâm. Sau khi cành giâm ra rễ, cần tăng cường quản lý nước và phân bón. Đầu tháng 7 là giai đoạn tăng trưởng nhanh của cây con, cần bón phân nhanh chóng 2-3 lần. Để đảm bảo cành đủ cứng cáp, từ giữa tháng 7 đến tháng 8 cần ngừng hoặc giảm tưới nước và bón phân, đồng thời tăng cường phòng trừ sâu bệnh, tỉa ngọn chính và ngọn phụ, để đảm bảo cây phát triển khỏe mạnh và thúc đẩy tăng trưởng ngang. Trong quá trình sinh trưởng, cần thường xuyên làm cỏ và xới đất để cải thiện điều kiện thông khí của đất, thúc đẩy sự phát triển của hệ rễ. Giâm cành ngoài trời là một phương pháp nhân giống đơn giản nhất, chi phí thấp, dễ dàng phổ biến, nhưng nếu quản lý không tốt, tỷ lệ sống và tỷ lệ thành công thấp. Ngoài ra, thời gian sinh trưởng của cây con ngắn, chất lượng cây con tương đối kém. Trung bình mỗi hecta giâm cành 6000-7000 đoạn cành, tỷ lệ thành công dao động từ 60-70%. Phương pháp nhân giống bằng ép cành là phương pháp nhân giống mà một phần cành của cây mẹ sinh ra rễ sau đó tách rời khỏi cây mẹ. (1) Phương pháp ép cành ngang có thể sử dụng cành thừa từ 1-2 năm tuổi hoặc cành non hoặc cành phụ của năm nay để nhân giống. Sử dụng cành già một năm tuổi để ép cành nhân giống, vào mùa đông năm trước, để lại cành măng từ gốc của cây mẹ, vào mùa xuân trước khi nảy mầm tiến hành ép cành. Trước tiên, ở vị trí gần cây mẹ cần ép cành, đào một rãnh sâu 10-15 cm, đáy rãnh bón phân, đào sâu để đất tơi xốp. Sau đó, xử lý cành cần ép bằng cách khắc nhẹ rồi đặt cành xuống đáy rãnh và cố định bằng gỗ hoặc móc sắt, phủ thêm 4-5 cm đất lên trên, chân đất phải được đạp chặt và giữ ẩm để dễ ra mầm và rễ. Khi chồi trên cành ép nảy mầm và nhánh non dài khoảng 15-20 cm, cần đắp thêm đất một chút. Khi nhánh non dài hơn 40 cm và phần gốc đã bán gỗ hóa, đắp thêm đất, lấp đầy rãnh để khuyến khích ra rễ. Sử dụng cành non để ép cành gọi là ép cành xanh. Có thể sử dụng cành măng từ gốc của cây mẹ để ép cành, làm cho nhánh phụ mọc thẳng đứng, nhánh dưới mọc rễ mới, sau khi nhánh phụ chín vào mùa thu tách ra thành cây độc lập, trở thành cây giống từ phương pháp ép cành. Cách làm cụ thể: Chọn cành măng tốt từ cây mẹ, dài khoảng 1 mét khi đó ngắt ngọn và kéo phẳng để khuyến khích nhánh phụ mọc và phát triển; khi nhánh phụ dài khoảng 20 cm, đào một rãnh sâu 10-15 cm trên mặt đất, đặt cành măng kéo phẳng xuống rãnh, làm cho nhánh phụ mọc thẳng đứng lên trên, sau đó lấp đất và đạp chặt. Lúc này thời tiết mưa nhiều và nhiệt độ cao, khi nhánh phụ dài khoảng 40 cm, lấp đầy rãnh và xử lý phần dưới của cành ép bằng cách khắc nhẹ để khuyến khích nhánh phụ gốc nhanh chóng ra rễ. (2) Phương pháp ép cành hình sóng giống như phương pháp ép cành từ cành già một năm tuổi, chỉ khác là khi ép cành trong rãnh, cành được uốn cong hình sóng, phần uốn xuống được cố định bằng gỗ hoặc móc sắt và ép xuống đáy rãnh, đạp chặt để khuyến khích ra rễ. Phần uốn lên có mắt đầy đủ, mọc ra nhánh non thành cây. Nhưng trước khi ép cành cần xử lý bằng cách khắc nhẹ để khuyến khích ra rễ. (3) Phương pháp ép cành trên không vào cuối mùa xuân trước khi nảy mầm, dùng túi nilon đựng đất để bọc cành, cũng có thể sử dụng ống tre, chậu nhỏ đựng đất, sau đó cành được đưa vào, cố định, tưới nước có thể ra rễ. Thông thường sau tháng 7-tháng 8, ở phần dưới của chậu, cắt dần phần gốc của cành bọc, tách khỏi cây mẹ, trở thành cây độc lập. Phương pháp ép cành trên không cũng có thể sử dụng cành non bán gỗ hóa, cách làm giống như cành già. Đối với cành mới mọc từ cành ép, quản lý giống như cành giâm, chủ yếu là chú ý tưới nước thường xuyên để đất luôn ẩm, khuyến khích ra rễ và phát triển nhánh. Phương pháp ghép cây nho bằng cách ghép cành xanh bằng phương pháp chẻ ngang là phương pháp ghép chính hiện nay. (1) Thời gian ghép: Khi cả gốc và cành ghép đều đạt trạng thái bán gỗ hóa có thể bắt đầu ghép, có thể tiếp tục ghép cho đến khi cây con mới ghép ra đời trong mùa thu có thể trưởng thành. Ở các tỉnh phía bắc như Hắc Long Giang, Cát Lâm, thời gian ghép có thể kéo dài từ tháng 5 đến tháng 6, thời gian ghép có thể kéo dài đến một tháng. Ở phía nam tỉnh Liêu Ninh và các tỉnh miền nam như Sơn Đông, Hà Bắc có thể ghép trong hơn hai tháng, nếu kết hợp với nhà kính, thời gian ghép có thể kéo dài hơn nữa. (2) Thu hái cành ghép: Cành ghép được thu từ cây mẹ có nguồn gốc thuần chủng, phát triển mạnh mẽ, không có sâu bệnh. Có thể kết hợp với việc cắt tỉa mùa hè như cắt bỏ nhánh phụ, tỉa ngọn, cắt bỏ nhánh phụ. Tốt nhất nên thu ở vườn ươm, cắt và ghép ngay lập tức, tỷ lệ sống cao. Nếu cần thu từ xa, cành xanh vừa cắt phải lập tức bỏ lá, dùng khăn ướt và màng plastic gói kín hoặc đặt trong chai đựng nước có miệng rộng, đáy chai đặt một ít đá viên, trong vòng 2-3 ngày có thể giữ cành tươi. Khi đến đích, cành ghép cần được gói thêm nhiều lớp khăn ướt, đặt trong ngăn đá tủ lạnh ở nhiệt độ 3-4°C, có thể bảo quản trong 3-4 ngày, tỷ lệ sống vẫn cao. Nếu không có tủ lạnh, có thể treo cành ghép dưới miệng giếng nước, hiệu quả cũng rất tốt. (3) Phương pháp ghép: Chủ yếu là ghép chẻ. Trước tiên, chọn cành ghép xanh có bán gỗ hóa, tốt nhất là sử dụng mầm mới nhú chưa nở lá, tỷ lệ sống và tốc độ phát triển sau ghép cao. Nếu mầm đã mọc 3-4 lá, cần loại bỏ nhánh phụ, sử dụng mầm mùa đông. Mầm mùa đông mọc chậm, nhưng sau khi mọc lại phát triển nhanh và chắc chắn. Đường kính và độ trưởng thành của gốc và cành ghép phải tương đương, tỷ lệ sống cao. Trước khi ghép, dùng dao ghép hoặc dao cạo râu cắt cành ghép xanh thành từng đoạn mỗi đoạn có một mầm, đặt trong chậu nước mát để bảo quản, khi nhiệt độ cao cần thay nước thường xuyên để hạ nhiệt. Khi ghép, giữ lại 3-4 lá trên gốc, loại bỏ mầm, cắt ngang trên đoạn gốc, ở mặt cắt giữa cắt ngang dài 2,5-3 cm. Chọn cành ghép có đường kính và độ trưởng thành tương đương với gốc, tại vị trí dưới mắt 0,5 cm, từ hai bên cắt thành mặt phẳng dài 2,5-3 cm hình tam giác, mặt cắt phải phẳng. Sau khi cắt cành ghép, ngay lập tức cắm vào chỗ cắt của gốc, đối lớp hình thành, phần đầu cành ghép cần lộ ra khoảng 0,5 mm để dễ dàng liền mạch. Sau đó, dùng dây nhựa mỏng rộng 0,5-0,6 cm, từ dưới cổ gốc quấn lên trên, chỉ để lộ mắt ghép bên ngoài, quấn đến phần trên của cành ghép, bọc kín lại, quấn trở xuống dưới và buộc nút sống. Nếu ghép cành xanh vào thời gian sớm, nhiệt độ thấp, sau khi quấn xong dây nhựa, có thể bọc thêm túi nhựa nhỏ để tăng nhiệt độ và độ ẩm, nâng cao tỷ lệ sống. (4) Quản lý vườn sau khi ghép: Sau khi ghép cành xanh, cần tưới nước kịp thời, quản lý việc mầm gốc tự nhiên và phòng trừ sâu bệnh. Trong tuần đầu tiên sau khi ghép cần giữ đất ẩm, bề mặt đất ẩm. Thường xuyên, lặp đi lặp lại loại bỏ mầm gốc trên gốc, tập trung dinh dưỡng, khuyến khích mầm ghép nảy mầm và phát triển. Khi nhánh mới từ mắt ghép dài khoảng 25-30 cm, cần cắm que tre hoặc que gỗ hoặc kéo dây sắt để buộc chặt, tiếp tục buộc khi nhánh dài ra để tránh bị bệnh do tiếp xúc với đất và gãy, mỗi cây con chỉ giữ một nhánh mới, các nhánh phụ ở nách lá cần giữ lại một lá và tỉa ngọn. Giai đoạn cuối (từ cuối tháng 8 đến giữa tháng 9) cần tỉa ngọn ở đỉnh nhánh để thúc đẩy nhánh phát triển ngang và trưởng thành. Từ tháng 6 đến tháng 7, cần bón phân urê hoặc đạm lân 1 lần, mỗi lần mỗi mẫu dùng 15 kg.
01-19

Vả ( ) là một loại cây hoa thuộc họ Dâu, thuộc chi Ficus, chủ yếu phát triển ở các khu vực nhiệt đới và ôn đới. Có khoảng 800 giống được biết đến, hầu hết là cây thường xanh, chỉ có các giống phát triển ở khu vực ôn đới mới là cây rụng lá. Quả hình tròn, có một lỗ nhỏ ở đuôi, phấn hoa được truyền bởi ong vàng. Còn được gọi là Arsh (The Story of the Western Regions, dịch từ tiếng Ba Tư: anjir), ngoài việc ăn tươi và dùng làm thuốc, quả vả còn được chế biến thành các sản phẩm như khô, mứt, siro, trà, rượu, đồ uống, hộp đóng. Vả khô không chứa bất kỳ chất hóa học nào, hương vị đậm đà và ngọt ngào. Nước ép và đồ uống từ vả có mùi thơm đặc trưng, có tác dụng làm dịu cổ họng, phù hợp cho mọi lứa tuổi. Cây vả có tán lá rộng, dáng cây thanh thoát, có giá trị quan sát tốt, là loại cây cảnh và cây trồng sân vườn tuyệt vời. Nó ra quả trong năm đầu trồng, là một trong những cây ăn quả trong chậu tốt nhất. Nếu phát triển mạnh mẽ cây cảnh từ vả, lợi nhuận sẽ rất rõ ràng, là một trong những cây ăn quả trong chậu có lợi nhuận cao nhất. Trong Kinh Thánh (Phúc Âm Tân Ước), cũng có câu chuyện về vả và Chúa Giêsu (bốn phúc âm). Đặc điểm hình thái của cây vả là cây bụi, cao từ 3-10 mét, nhiều nhánh; vỏ cây màu xám, có lỗ khí rõ rệt; cành non thẳng, chắc chắn. Lá mọc so le, dày, hình bầu dục rộng, dài và rộng gần bằng nhau, khoảng 10-20 cm, thường có 3-5 khía, khía nhỏ hình bầu dục, mép có răng không đều, bề mặt thô ráp, mặt dưới có nhiều lông tơ nhỏ và lông ngắn màu xám, gốc hình tim nông, có gân chính 3-5 nhánh, gân phụ 5-7 đôi; cuống lá dài 2-5 cm, chắc chắn; phiến lá rụng sớm. Cây đực và cái khác nhau, hoa đực và hoa giấu cùng mọc trong lòng quả, hoa đực mọc ở miệng quả, hoa bị bao phủ bởi 4-5 lá đài, nhị hoa 3, có khi 1 hoặc 5, hoa giấu có vòi hoa mọc bên, ngắn; hoa cái có lá đài giống hoa đực, bầu hoa hình trứng, trơn, vòi hoa mọc bên, đầu trụ 2 phân đôi, hình dây. Quả mọc đơn độc ở nách lá, lớn và hình bầu dục, đường kính 3-5 cm, phần trên lõm xuống, khi chín có màu tím đỏ hoặc vàng, có 3 lá bắc hình oval; hạt giống hình lăng kính. Thời gian ra hoa và kết quả từ tháng 5 đến tháng 7. Cây vả thích khí hậu ấm áp và ẩm ướt, chịu được đất nghèo, kháng khô hạn, không chịu lạnh, không chịu ngập nước. Đất trồng lý tưởng là đất thoát nước tốt, tầng đất dày, màu mỡ, thoát nước tốt. Phân bố gốc của cây vả là ven biển Địa Trung Hải. Hiện nay, nó được trồng từ Thổ Nhĩ Kỳ đế Trong thời nhà Đường ở Trung Quốc, nó đã được du nhập từ Ba Tư, hiện nay được trồng ở khắp các vùng của Trung Quốc, đặc biệt nhiều ở khu vực phía nam Tân Cương. Phương pháp nhân giống của cây vả chủ yếu là giâm cành, chia cây, ép cành, trong đó giâm cành là phổ biến nhất. Giâm cành vào khoảng giữa tháng 3 đến đầu tháng 4, chọn cành chưa nảy mầm từ cây mẹ 1-3 năm tuổi, cành khỏe, đường kính 1-1,5 cm, cắt thành đoạn dài 30-50 cm, rạch hàng cách 50 cm, nghiêng cắm vào đất hai phần ba, phần còn lại lộ ra ngoài, lấp đất và ấn chặt, tưới nước giữ ẩm. Giâm cành vào mùa hè, có thể sử dụng cành non bán gỗ hóa để giâm. Sau khoảng một tháng, cành sẽ ra rễ. Sau khi giâm cành 1 năm có thể di chuyển cây. Cũng có thể bảo quản cành giâm trong cát ướt trong một tháng để tạo mô liên kết rồi giâm. Chia cây thực hiện vào tháng 2-3, trồng cây bằng cách chia cành hoặc gốc, khoảng cách trồng theo hàng và cột là (3-4) m × (3-4) m. Trước khi trồng cần tỉa cành, loại bỏ cành quá dày hoặc cành chết, tốt nhất là trồng khi cây chưa chảy nhựa hoặc trước khi nảy mầm. Kỹ thuật trồng cây có thể trồng trong chậu hoặc trên đồi, trong vườn, hoặc trong sân vườn. Khi trồng trên đồi, trong vườn, hoặc trong sân vườn, mật độ trồng thường tăng lên, có thể sử dụng mật độ 1 × 2 mét, hố trồng sâu khoảng 50-70 cm, đường kính 40-60 cm, dùng phân hỗn hợp có chứa phốt phốt và kali (như phân chuồng, phân gia cầm, phân xanh, phân đậu, phân bón hóa học tổng hợp) làm phân bón nền, thời điểm trồng thích hợp ở khu vực phía bắc là vào ngày lễ thanh minh, ở khu vực phía đông là vào ngày lễ mưa mùa xuân, ở khu vực phía nam có thể trồng vào mùa thu sau khi cây rụng lá, nhưng nên tránh thời gian ra hoa và kết quả. Chăm sóc và bảo dưỡng Cây vả có hình thức chỉnh trang đơn giản, yêu cầu kỹ thuật cắt tỉa không cao, thường sử dụng kiểu hình cây tự nhiên với 3-5 cành chính, không giữ cành phụ, các nhóm cành chính trực tiếp mọc từ cành chính. Trong giai đoạn cây con, trọng tâm là nuôi dưỡng các cành chính và nâng góc cành chính để khuyến khích phân nhánh, nhằm mục đích mở rộng tán cây nhanh chóng. Sau khi bước vào giai đoạn kết quả, tập trung nuôi dưỡng các nhóm cành để khuyến khích tạo sản lượng. Trong giai đoạn kết quả chính, chú ý nuôi dưỡng các cành chính và cập nhật các nhóm cành lớn và trung bình, cắt tỉa các nhóm cành yếu. Đối với cây già hoặc bị sâu bệnh nặng, có thể sử dụng các chồi măng hoặc mầm ẩn từ gốc hoặc nhánh để tái tạo cành chính và các nhóm cành. Cây vả bắt đầu ra quả từ giữa tháng 7 và kéo dài đến tháng 11. Trang cá cược Thời điểm thu hoạch vả thường vào buổi sáng hoặc buổi tối trong ngày nắng, khi quả đã chín, thấy lỗ nhỏ ở đỉnh hơi mở, vỏ quả có màu sắc đặc trưng của giống (thường là đỏ hoặc vàng), thu hoạch. Quả quá chín sau khi thu không chịu được bảo quản và vận chuyển. Quản lý vườn sau khi cây sống cần làm cỏ, xới đất. Mỗi năm vào tháng 6 và tháng 7 cần bón phân người hoặc sulfit amoni một lần. Sau khi trồng cần tạo hình tán cây thành hình không tầng hoặc hình cây tự nhiên với nhiều cành chính, thông thường có thể định hình cây ở độ cao 50 cm, giữ lại 5-7 cành chính và có thể chọn thêm cành phụ để lấp khoảng trống. Sau khi cây định hình, cần tỉa cành hàng năm, loại bỏ cành quá dày, cành bị sâu bệnh và cành chết. Việc tỉa cành nhẹ là chủ yếu. Trong trường hợp thu hoạch quả mùa hè và mùa thu, có thể tỉa ngắn cành quả để giữ lại 2-3 mắt; nếu chủ yếu thu hoạch quả mùa hè thì không nên tỉa ngắn. Trong giai đoạn sinh trưởng của cây vả non, nếu phân bón cơ bản không đủ thì cần bón phân. Cách làm là bón phân hỗn hợp đã hoai mục cách gốc khoảng 40 cm, mỗi cây khoảng 5 kg; đối với cây trồng trong chậu, ít nhất phải bón 1 kg. Đối với cây trưởng thành, mỗi cây bón khoảng 15 kg phân hỗn hợp đã hoai mục, bón vào trước và sau khi rụng lá, bón phân thúc tốt nhất vào thời kỳ cành non phát triển mạnh và quả nhanh phình to. Cây vả khá bền phân, nhưng nên ưu tiên bón phân kali và phốt phốt, tỷ lệ NPK thông thường là 0,5:1:1. Vì nó khá kháng khô hạn, nhưng không chịu ngập nước, nhu cầu nước lớn trong thời kỳ phát triển cành non và phình to của quả, nhưng môi trường ngập nước lâu dài hoặc tích nước nặng dễ gây rụng hoa, rụng quả, rụng lá, thậm chí tử vong, vì vậy cũng cần chú ý thoát nước. Đối với cây trồng trong chậu cũng cần chú ý thoát nước, đặc biệt trong mùa mưa hoặc sau mưa kéo dài, cần che mưa hoặc lật chậu để thoát nước. Phòng trừ sâu bệnh Cây vả ít xảy ra sâu bệnh. Trong thời kỳ sinh trưởng của quả, mùi đặc biệt tỏa ra dễ thu hút bọ cánh cứng gây hại; khi quả chín dễ bị chim tấn công. Ngoài việc thủ công bắt bọ cánh cứng và đuổi chim, có thể sử dụng thuốc hóa học để diệt trứng sâu. Cũng có thể dùng cỏ nhân tạo buộc dải nhựa màu sắc cắm vào ruộng để đuổi chim. Giá trị y học của cây vả có tác dụng làm sạch ruột, giải độc. Trị viêm ruột, tiêu chảy, táo bón, trĩ, đau họng, ung nhọt, ghẻ lác, lợi họng, tiêu độc, khử trùng. Dùng cho người ăn không tiêu, bụng trướng, táo bón, tiêu hóa kém, trĩ, sa trực tràng, tiêu chảy, sữa không đủ, đau họng, tiêu chảy cấp, ho nhiều đờm. Theo Dược thảo Nam của Vân Nam: đắp tất cả các loại u nang không tên, ung nhọt, ghẻ lác, cước,, da cá, miệng cá, u vú, mụn trứng cá vỡ; trộn với dầu mè bôi. Theo Bản đồ dân dụng: chữa bệnh họng. Theo Thực phẩm bản thảo của Vương Dĩnh: kích thích tiêu hóa, dừng tiêu chảy. Theo Bản thảo cương mục: chữa bệnh trĩ, đau họng. Theo Sách y học thực vật của Quảng Tây: rửa trĩ, nấu thịt ăn giải độc trăm thứ. Theo Sách y học thực vật của Liêu Ninh: kích thích tiêu hóa, giảm tiêu chảy, hóa đờm, điều hòa khí. Theo Sách y học thực vật của Vân Nam: làm sạch dạ dày, giảm tiêu chảy, giải độc, hóa đờm, điều hòa khí. Trị không tiêu, viêm ruột, tiêu chảy, đau họng, ho nhiều đờm, tức ngực. Công thức điển hình: Trị đau họng: Vả tươi phơi khô, nghiền thành bột, thổi vào họng. (Theo Dược thảo Phúc Châu) Trị viêm phế quản: Vả năm quả, sắc nước pha đường đá. (Theo Dược thảo Phúc Kiến) Trị trĩ, sa trực tràng, táo bón: Ăn sống quả vả tươi hoặc ăn khô mười quả, cùng với một đoạn ruột heo, sắc nước uống
Trang trước
1

Công ty Phát triển Nông nghiệp Đặc sắc Giang Tây

Địa chỉ: Khu công nghiệp kinh tế Tân Niên, Đường Qinglan, tỉnh Giang Tây slot games
Điện thoại:

Bộ phận bán hàng:
Trang thương mại điện tử JD: http://junlanhu.jd.com

Nông nghiệp Đặc sắc Ai Jin

Trang thương mại điện tử JD

Bản quyền © 2020 Công ty Phát triển Nông nghiệp Đặc sắc Giang Tây bóng đá ngoại hạng anh Thiết kế trang web: Công ty Trung Doanh Nam Xương